Ghép gan từ người cho sống là gì? Các công bố khoa học về Ghép gan từ người cho sống

Ghép gan từ người cho sống là quá trình di chuyển một bộ phận gan từ một người sống đến một người khác có vấn đề về gan, thông qua một phẫu thuật ghép tế bào th...

Ghép gan từ người cho sống là quá trình di chuyển một bộ phận gan từ một người sống đến một người khác có vấn đề về gan, thông qua một phẫu thuật ghép tế bào thực hiện bởi đội ngũ y tế chuyên gia. Mục đích của việc ghép gan là cung cấp một bộ phận gan mới hoạt động tốt cho người bệnh để cải thiện chất lượng cuộc sống và tăng cường tỉ lệ sống sót.
Quá trình ghép gan từ người cho sống có một số bước chính như sau:

1. Đánh giá và lựa chọn người cho ghép gan: Trước khi ghép gan, người bệnh và người cho phải qua quá trình kiểm tra và đánh giá y tế tổng quát để đảm bảo an toàn cho cả hai bên. Điều kiện để trở thành người cho ghép gan bao gồm tuổi trên 18 và dưới 60, sức khỏe tốt, gan là bộ phận duy nhất bị tổn thương, không có bệnh lý nhiễm trùng hoặc ung thư.

2. Khớp ghép gan: Quá trình này gắn kết người bệnh với người cho dựa trên các yếu tố như nhóm máu phù hợp, sự tương thích mô học và trọng lượng cơ thể. Quá trình khớp ghép gan được điều phối bởi các cơ quan quản lý ghép tạng như các Trung tâm Ghép gan và Hợp tác Quốc gia về Ghép tạng.

3. Phẫu thuật ghép gan: Quá trình ghép gan diễn ra thông qua một ca phẫu thuật lớn. Người bệnh và người cho đều phải được chuẩn bị sẵn sàng từ trước và được một đội ngũ y tế chuyên gia tham gia trực tiếp trong quá trình này. Gan bị tổn thương từ người cho sẽ được tách ra và ghép vào người bệnh thông qua việc kết nối mạch máu, mạch săn chắc và một số cấu trúc khác.

4. Theo dõi sau phẫu thuật: Sau quá trình ghép gan, người bệnh sẽ cần được theo dõi cẩn thận trong giai đoạn hồi phục. Điều này bao gồm việc theo dõi chức năng gan mới, kiểm tra tình trạng y tế tổng quát và đảm bảo rằng quá trình phục hồi diễn ra tốt.

Quá trình ghép gan từ người cho sống là một quy trình phức tạp và đòi hỏi sự phối hợp giữa nhiều chuyên gia y tế, bao gồm phẫu thuật viên, bác sĩ chuyên khoa gan, y tá và các chuyên gia hỗ trợ khác.
Dưới đây là chi tiết hơn về quá trình ghép gan từ người cho sống:

1. Đánh giá và lựa chọn người cho ghép gan:
- Người cho ghép gan thông thường là người thân trong gia đình của người bệnh, không nhất thiết phải là người cùng nhóm máu. Tuy nhiên, những trường hợp ghép gan từ người không phải là người thân được thực hiện càng ngày càng phổ biến.
- Đội ngũ y tế sẽ tiến hành các kiểm tra y tế tổng quát để đánh giá tình trạng sức khỏe của người cho ghép gan. Điều kiện để trở thành người cho ghép gan bao gồm tuổi từ 18-60, gan là bộ phận duy nhất bị tổn thương, không mắc bệnh nhiễm trùng hoặc ung thư.
- Ngoài ra, tương thích mô học cũng được xem xét để đảm bảo ít khả năng xảy ra phản ứng kiểm soát (rejection) sau phẫu thuật.

2. Khớp ghép gan:
- Quá trình khớp ghép gan được phối hợp bởi các cơ quan quản lý ghép tạng, các trung tâm ghép gan và Hợp tác Quốc gia về Ghép tạng trong quốc gia.
- Quá trình khớp ghép gan dựa trên các yếu tố như nhóm máu, sự tương thích mô học và trọng lượng cơ thể. Nhóm máu phải được khớp nhau giữa người cho ghép gan và người bệnh để đảm bảo việc chấp nhận gan để nhận.

3. Phẫu thuật ghép gan:
- Quá trình phẫu thuật ghép gan diễn ra thông qua một ca phẫu thuật lớn và phức tạp.
- Đội ngũ y tế sẽ thực hiện phẫu thuật trên cả người bệnh và người cho ghép gan. Người cho ghép gan sẽ trải qua một phẫu thuật lấy gan dưới sự kiểm soát hoàn toàn và tiến hành ghép gan cho người bệnh.
- Phẫu thuật này thường kéo dài từ 8-12 giờ và yêu cầu sự chính xác cao và kỹ năng phẫu thuật.

4. Theo dõi sau phẫu thuật:
- Sau quá trình ghép gan, người bệnh sẽ được theo dõi rất sát trong giai đoạn hồi phục.
- Chức năng gan mới, các chỉ số y tế tổng quát và các biểu hiện của cơ thể sẽ được kiểm tra để đảm bảo việc ghép gan thành công và không gặp phản ứng kiểm soát.
- Người bệnh sẽ phải tuân thủ các chỉ định của bác sĩ và sử dụng thuốc theo đúng chỉ dẫn.

Quá trình ghép gan từ người cho sống yêu cầu một đội ngũ y tế chuyên gia có kinh nghiệm để thực hiện thủ thuật phẫu thuật phức tạp và đảm bảo sự thành công và an toàn cho cả người cho ghép gan và người bệnh.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "ghép gan từ người cho sống":

ĐIỀU TRỊ CAN THIỆP NỘI MẠCH HẸP TĨNH MẠCH GAN SAU GHÉP GAN TỪ NGƯỜI CHO SỐNG Ở TRẺ EM: NHÂN 1 TRƯỜNG HỢP
Ghép gan là phương pháp hiệu quả được lựa chon trong điều trị các bệnh lý gan mật giai đoạn cuối, biến chứng mạch máu là một trong các biến chứng nguy cơ gây suy mảnh ghép, biến chứng hẹp miệng nối tĩnh mạch gan chiếm khoảng 6% trong ghép gan trẻ em từ người cho sống. Điều trị can thiệp nội mạch gồm nong bóng và đặt stent là phương pháp an toàn và hiệu quả trong điều trị biến chứng này.
#ghép gan từ người cho sống #hẹp tĩnh mạch gan #nong bằng bóng #đặt stent
Một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng trong gây mê hồi sức bệnh nhân ghép gan từ người cho sống tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108
Mục tiêu: Nhận xét một số đặc điểm gây mê hồi sức trên bệnh nhân ghép gan từ người cho sống tại Bệnh viện Trung ương Quân đội (TWQĐ) 108. Đối tượng và  phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu, mô tả trên 82 bệnh nhân (BN) được chia thành 2 nhóm, nhóm có chỉ định phẫu thuật ghép gan do ung thư gan (nhóm U) và nhóm ghép gan do xơ gan, suy gan giai đoạn cuối (nhóm XS). BN được gây mê cân bằng, hô hấp điều khiển bằng máy AiSys CS2: Khởi mê propofol, duy trì mê desofluran, fentanyl, esmeron với đích độ mê (BIS) từ 40-60, độ giãn cơ (TOF) là 0%. Theo dõi huyết động trên hệ thống Volume View, xét nghiệm khí máu, sinh hóa, huyết học, đông chảy máu ROTEM 30-60 phút/lần. Đích duy trì Hct 25-28%; tiểu cầu > 30G/l, Fib > 0,8g/l, INR < 2, glucose máu < 10mmol/l, albumin > 30g/l. Kết quả: Cả 2 nhóm gặp chủ yếu là nam giới trong đó nhóm u gan có 29/30 BN chiếm tỷ lệ 96,6%, nhóm XS gặp 44/53 BN (84,6%). Nhóm u gan các chỉ số lâm sàng và cận lâm sàng hầu hết trong giới hạn bình thường hoặc rối loạn mức độ nhẹ, điểm MELD score < 25. Nhóm XS hầu hết là BN nặng và rất nặng: 21 BN có chỉ số MELD score 40, 21 BN hôn mê gan trong đó hôn mê độ III, IV là 9 BN (17,3%), 26 BN tràn dịch màng phổi, màng bụng mức độ vừa, nặng (50%), 7 BN thở máy trước mổ (13,5%), 86,5% có rối loạn đông máu mức độ vừa-nặng. Hội chứng tái tưới máu gặp ở nhóm u gan 76,6%, nhóm XS gặp 49/52 BN chiếm tỷ lệ 94,2%, 100% cần bổ sung huyết tương tươi (HTT) và albumin trong mổ. 100% BN nhóm XS cần truyền khối hồng cầu với khối lượng trung bình là 1816ml. BN đủ tiêu chí rút nội khí quản ngay sau mổ ở nhóm u gan là 100%, nhóm xơ gan và suy gan là 59,6%. Không có bệnh nhân tử vong. Kết luận: Các rối loạn nặng do hậu quả của bệnh lý gan mật giai đoạn cuối đều gặp chủ yếu trong nhóm bệnh nhân suy gan và xơ gan. Trong quá trình phẫu thuật, hầu hết đều có hội chứng tái tưới máu, rối loạn huyết động, phải dùng thuốc vận mạch hỗ trợ. Nhóm u gan ít rối loạn và có tiên lượng tốt hơn về gây mê hồi sức. Sau mổ có thế rút nội khí quản an toàn ở các bệnh nhân đủ tiêu chuẩn.
#Ghép gan #gây mê hồi sức trong ghép gan #suy gan giai đoạn cuối #xơ gan
Chảy máu sớm sau phẫu thuật ghép gan từ người cho sống Dịch bởi AI
Abdominal Imaging - Tập 34 - Trang 365-370 - 2008
Chúng tôi thảo luận về các tác động lâm sàng của việc chảy máu sớm sau phẫu thuật ghép gan từ người cho sống (LDLT) và những phát hiện trên CT hoặc CT động mạch so với chụp động mạch theo các nguyên nhân chảy máu khác nhau. Sự hình thành khối máu tụ đột ngột cũng như sự rò rỉ của chất phát quang trên CT được coi là các phát hiện dự đoán khả năng chảy máu sớm sau phẫu thuật ở bệnh nhân đã được ghép gan. Việc xem xét cẩn thận những phát hiện này có thể ngăn ngừa sự tiến triển thành tình trạng thảm khốc cần can thiệp phẫu thuật.
#chảy máu sớm #ghép gan từ người cho sống #CT #thấy trên CT #chẩn đoán hình ảnh #quản lý phẫu thuật
Ghép gan từ người cho sống: Nhìn lại 30 năm kinh nghiệm của tôi Dịch bởi AI
The Japanese journal of surgery - Tập 49 - Trang 288-294 - 2018
Kể từ khi tôi chuyển từ Trung tâm Ung thư Quốc gia sang Đại học Shinshu, tôi đã thực hiện ghép gan từ người cho sống (LDLT), đây là cách duy nhất để cứu sống bệnh nhân mắc bệnh gan giai đoạn cuối. Vào tháng 6 năm 1990, chúng tôi đã thực hiện ca ghép LDLT đầu tiên, đây cũng là ca ghép thành công đầu tiên ở Nhật Bản. Bệnh nhân vẫn khỏe mạnh và tận hưởng cuộc sống bình thường sau 28 năm kể từ ca ghép. Năm 1993, chúng tôi đã thực hiện thành công ghép LDLT từ người lớn sang người lớn, đây là ca ghép thành công đầu tiên trên thế giới. Bệnh nhân đã sống bình thường trong 17 năm cho đến khi qua đời ở tuổi 70. Đối với trẻ nhỏ, gan trái của người cho người lớn quá lớn để đóng bụng. Tuy nhiên, ở thanh thiếu niên hoặc người lớn, ngay cả khi sử dụng toàn bộ gan phải, thể tích của mảnh ghép cũng quá nhỏ. Khái niệm thể tích gan chuẩn (SLV) đã chứng minh là rất quan trọng cho quy trình này và được tính toán như sau: 706,2 × diện tích bề mặt cơ thể + 2,4. Chúng tôi đã đề xuất một phương pháp đánh giá tình trạng tắc nghẽn của gan bằng siêu âm Doppler. Ngoài ra, chúng tôi đã chế tạo mảnh ghép vùng bên phải. Qua nhiều năm, chúng tôi đã đóng góp cho LDLT theo nhiều cách và công bố nhiều tài liệu. Chúng tôi cảm thấy rằng những phát hiện của mình rất hữu ích không chỉ cho LDLT mà còn cho các thủ tục cắt gan khác.
#ghép gan #người cho sống #LDLT #gan giai đoạn cuối #siêu âm Doppler #thể tích gan chuẩn
HÌNH ẢNH BIẾN CHỨNG MẠCH MÁU TRÊN CẮT LỚP VI TÍNH ĐA DÃY Ở BỆNH NHÂN NHẬN GAN TỪ NGƯỜI CHO SỐNG
Mục tiêu: nhận xét đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính (CLVT) trong quá trình theo dõi bệnh nhân (BN) sau ghép gan trong tháng đầu. Đối tượng và phương pháp: 67 BN ghép gan từ người cho sống tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 được đánh giá bằng CLVT gan 3 pha, quá trình đánh giá được thực hiện trên máy CLVT đa dãy. Kết quả: Nghiên cứu trên 67 BN (54 nam & 13 nữ), tuổi trung bình của BN là 55 tuổi, nhỏ nhất 10 tuổi, lớn nhất 75 tuổi. Chỉ định ghép gan phần lớn là ung thư biểu mô tế bào gan (chiếm 38,8%), suy gan cấp (chiếm 35,8%) và xơ gan (chiếm 23,9%). Biến chứng động mạch xảy ra ở 06 trường hợp: 02 trường hợp huyết khối động mạch gan, 03 trường hợp hẹp động mạch gan, 01 trường hợp có đồng thời giả phình kèm huyết khối động mạch gan. Có 12 trường hợp có huyết khối tĩnh mạch gan và 01 trường hợp huyết khối tĩnh mạch chủ dưới. Kết luận: Chụp CLVT đa dãy là phương pháp chẩn đoán không xâm nhập và rất hữu ích trong việc phát hiện biến chứng mạch máu ở BN nhận gan sau ghép gan từ người cho sống, đánh giá đồng bộ về hệ mạch gan, nhu mô gan. Chụp mạch CLVT là lựa chọn tốt nhất để xác nhận các nghi ngờ về biến chứng mạch máu trên siêu âm. Việc phát hiện các biến chứng trên CLVT góp phần rất lớn trong chẩn đoán và điều trị. 
#ghép gan từ người cho sống #chụp CLVT đa dãy #biến chứng sau ghép #huyết khối động mạch gan #hẹp động mạch gan #huyết khối tĩnh mạch gan.
Thủng ruột sau khi ghép gan từ người cho sống ở trẻ em Dịch bởi AI
Pediatric Surgery International - Tập 27 - Trang 23-27 - 2010
Thủng ruột sau khi ghép gan (LT) là một biến chứng hiếm gặp nhưng có tỷ lệ tử vong cao với tiên lượng kém. Trong bài báo này, chúng tôi báo cáo kết quả của các trường hợp thủng ruột sau khi ghép gan cho trẻ em tại khoa của chúng tôi. Đối tượng nghiên cứu là 148 bệnh nhân đã trải qua ghép gan từ người cho sống cho trẻ em. 114 bệnh nhân mắc chứng tắc mật bẩm sinh (BA) được chia thành hai nhóm: nhóm có thủng ruột đi kèm (Nhóm A) và nhóm không có (Nhóm B). Trong tổng số, có bốn bệnh nhân (2,5%) bị thủng ruột. Bệnh lý ban đầu của họ là BA và tất cả đều đã được phẫu thuật khẩn cấp, với tỷ lệ tử vong là 50,0%. So sánh giữa Nhóm A và Nhóm B cho thấy có sự khác biệt đáng kể về độ tuổi bệnh nhân, trọng lượng cơ thể, thời gian phẫu thuật, thời gian thiếu máu lạnh và thể tích máu mất đi. Tỷ lệ sống sót ở Nhóm A và Nhóm B lần lượt là 50,0% và 99,1% (p < 0,01). Thời gian phẫu thuật là một yếu tố nguy cơ độc lập (p = 0,05). Thủng ruột sau khi ghép gan là một biến chứng có khả năng gây tử vong. Ghép gan là một thủ tục đòi hỏi sự chăm sóc và chính xác, và khả năng thủng ruột luôn cần được ghi nhớ trong quá trình quản lý sau phẫu thuật, đặc biệt khi thời gian phẫu thuật kéo dài.
#thủng ruột #ghép gan #tắc mật bẩm sinh #phẫu thuật khẩn cấp #tỷ lệ sống sót
Alterations of some hemostatic parameters of patients undergoing living donor liver transplantation at 108 Military Central Hospital
Mục tiêu: Khảo sát sự thay đổi và đánh giá mối tương quan của một số chỉ số cầm đông máu trong quá trình ghép ở người bệnh ghép gan từ người cho sống. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu hồi cứu, mô tả ở 121 người bệnh được ghép gan từ người cho sống, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, từ tháng 01/2020 đến tháng 3/2023 về kết quả xét nghiệm số lượng tiểu cầu (SLTC), tỉ lệ prothrombin (PT%), tỉ số thromboplastin từng phần hoạt hóa (rAPTT), Fibrinogen và một số chỉ số của ROTEM ở các thời điểm: Trước ghép, không gan, tái tưới máu và ngay sau ghép của quá trình ghép gan. Kết quả: Xét nghiệm PT%, rAPTT, Fibrinogen thay đổi rõ nhất ở thời điểm tái tưới máu và bắt đầu cải thiện dần ở thời điểm ngay sau ghép. SLTC giảm ở cả bốn thời điểm và giảm nặng nhất ở thời điểm ngay sau ghép. Chỉ số CT INTEM kéo dài ở thời điểm tái tưới máu. Chỉ số CT EXTEM bình thường trong suốt quá trình ghép gan. Các chỉ số A5, A10, MCF của EXTEM, FIBTEM giảm ở thời điểm tái tưới máu và giảm nhất ngay sau ghép. PT% và CT EXTEM tương quan nghịch ở mức độ vừa. CT INTEM và rAPTT, Fibrinogen và A10 EXTEM, A10 FIBTEM tương quan chặt. SLTC tương quan rất chặt với A10, MCF EXTEM. Kết luận: Các xét nghiệm cầm đông máu bắt đầu thay đổi ở thời điểm không gan và rõ nhất ở thời điểm tái tưới máu, cải thiện dần ở thời điểm ngay sau ghép. Có mối tương quan từ mức độ vừa đến chặt giữa các chỉ số ROTEM với SLTC, PT%, rAPTT, Fibrinogen ở các giai đoạn ghép gan.
#Ghép gan từ người cho sống #các chỉ số cầm đông máu
Khi nào nên ngừng: xác định giới hạn đủ tiêu chuẩn ghép tạng trong ghép gan từ người cho sống cho ung thư biểu mô tế bào gan Dịch bởi AI
BMC Cancer - Tập 20 - Trang 1-9 - 2020
Ghép gan từ người cho sống (LDLT) là một lựa chọn điều trị chấp nhận cho ung thư biểu mô tế bào gan (HCC). Các tiêu chí ghép truyền thống nhằm mục đích sử dụng tốt nhất các cơ quan hiến tế bào với nguy cơ tái phát sau ghép thấp. Trong LDLT, tỷ lệ sống sót không tái phát lâu dài (RFS) 50% được coi là chấp nhận được. Mục tiêu của nghiên cứu hiện tại là xác định các yếu tố trước phẫu thuật liên quan đến tỷ lệ tái phát cao trong LDLT. Từ tháng 4 năm 2012 đến tháng 12 năm 2019, 898 ca LDLT đã được thực hiện tại trung tâm của chúng tôi. Trong số đó, 242 ca được xác nhận có HCC qua giải phẫu bệnh lý. Chúng tôi đã xem xét các yếu tố trước phẫu thuật liên quan đến RFS ≤ 50% sau 4 năm. Để phân tích sống sót, các đường cong Kaplan Meier đã được sử dụng và phân tích hồi quy Cox được sử dụng để xác định các yếu tố tiên đoán độc lập về tái phát. AFP trung bình là 14.4 (0.7–11,326.7) ng/ml. Kích thước khối u trung bình là 2.8 (phạm vi = 0.1–11) cm và số lượng khối u là 2 (phạm vi = 1–15). Trong phân tích đa biến, AFP > 600 ng/ml [HR:6, CI: 1.9–18.4, P = 0.002] và xâm lấn vi mạch (MVI) [HR:5.8, CI: 2.5–13.4, P < 0.001] là các yếu tố tiên đoán độc lập cho RFS ≤ 50% sau 4 năm. Khi AFP > 600 ng/ml, MVI được thấy trong 88.9% các khối u xếp loại kém và 75% các khối u ngoài tiêu chí của Đại học California San Francisco. Dự đoán RFS 4 năm là 78% cho toàn bộ nhóm. Khi AFP < 600 ng/ml, RFS 4 năm cho các khối u xếp loại tốt - trung bình và xếp loại kém lần lượt là 88% và 73%. Với AFP > 600 ng/ml, RFS là 53% và 0 cho các khối u xếp loại tốt - trung bình và xếp loại kém tương ứng (P < 0.001). Bệnh nhân có AFP < 600 ng/ml có kết quả chấp nhận được sau LDLT. Đối với bệnh nhân có AFP > 600 ng/ml, sinh thiết trước phẫu thuật để loại trừ phân biệt kém nên được xem xét cho việc lựa chọn bệnh nhân.
#ghép gan từ người cho sống #ung thư biểu mô tế bào gan #tái phát #xâm lấn vi mạch #AFP
Hình ảnh biến chứng mạch máu trên cắt lớp vi tính đa dãy ở bệnh nhân nhận gan từ người cho sống
Mục tiêu: nhận xét đặc điểm hình ảnh cắt lớp vi tính (CLVT) trong quá trình theo dõi bệnh nhân (BN) sau ghép gan trong tháng đầu. Đối tượng và phương pháp: 67 BN ghép gan từ người cho sống tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 được đánh giá bằng CLVT gan 3 pha, quá trình đánh giá được thực hiện trên máy CLVT đa dãy. Kết quả: Nghiên cứu trên 67 BN (54 nam & 13 nữ), tuổi trung bình của BN là 55 tuổi, nhỏ nhất 10 tuổi, lớn nhất 75 tuổi. Chỉ định ghép gan phần lớn là ung thư biểu mô tế bào gan (chiếm 38.8%), suy gan cấp (chiếm 35.8%) và xơ gan (chiếm 23.9%). Biến chứng động mạch xảy ra ở 14 trường hợp: 07 trường hợp huyết khối động mạch gan, 04 trường hợp hẹp động mạch gan, 01 trường hợp giả phình động mạch gan, 02 trường hợp có đồng thời giả phình kèm huyết khối động mạch gan. Có 14 trường hợp có huyết khối tĩnh mạch gan và 01 trường hợp huyết khối tĩnh mạch chủ dưới. Kết luận: Chụp CLVT đa dãy (MSCT) là phương pháp chẩn đoán không xâm nhập có độ chính xác cao trong việc phát hiện biến chứng mạch máu ở BN nhận gan sau ghép gan từ người cho sống, đánh giá đồng bộ về hệ mạch gan, nhu mô gan. Chụp mạch CLVT (MSCTA) là lựa chọn tốt nhất để xác nhận các nghi ngờ về biến chứng mạch máu trên siêu âm. Việc phát hiện các biến chứng trên CLVT góp phần rất lớn trong chẩn đoán và điều trị.
#ghép gan từ người cho sống #chụp CLVT đa dãy #biến chứng sau ghép #huyết khối động mạch gan #hẹp động mạch gan #huyết khối tĩnh mạch gan
28. Đánh giá tính an toàn của phẫu thuật lấy mảnh ghép từ người cho sống ghép gan cho trẻ em tại Bệnh viện Nhi Trung ương
Tạp chí Nghiên cứu Y học - Tập 167 Số 6 - 2023
Ghép gan được coi là biện pháp điều trị cuối cùng cho các bệnh lý gan giai đoạn cuối, suy gan cấp và một số khối u ở gan, cho cả đối tượng trẻ em và người lớn. Sự khan hiếm về nguồn tạng ghép đã làm cho việc ghép gan từ người cho sống trở nên ngày càng phổ biến. Chúng tôi tiến hành hồi cứu trên 31 cặp ghép gan cho trẻ em được tiến hành tại bệnh viện Nhi trung ương từ tháng 7/2018 - 3/2023 nhằm đánh giá tính án toàn của phẫu thuật trên nhóm người cho gan. Hệ thống phân loại theo Clavien - Dindo được áp dụng để đánh giá mức độ các biến chứng gặp phải. Trong số 31 người cho gan có 15 nam, 16 nữ, tuổi trung bình 33,74. Bố mẹ ruột hiến gan cho con chiếm 67,8%. Các loại mảnh ghép được lấy bao gồm: thùy bên trái 26 trường hợp (87,1%), gan phải 3 (12,9%), gan trái 2 (6,5%). Thời gian phẫu thuật trung bình 301,8 phút, thời gian nằm viện trung bình 9,1 ngày. Bất thường sau mổ gặp ở 9 trường hợp, trong đó 8 phân loại mức độ nhẹ, 1 mức độ nặng (từ độ III trở lên) theo Clavien-Dindo, không có trường hợp nào tử vong. Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, phẫu thuật lấy mảnh ghép gan từ người cho sống với người nhận trẻ em có thể được thực hiện an toàn với tỉ lệ biến chứng thấp.
#Ghép gan từ người cho sống #ghép gan cho trẻ em
Tổng số: 14   
  • 1
  • 2